Rối loạn tình dục nữ là gì? Các công bố khoa học về Rối loạn tình dục nữ

Rối loạn tình dục nữ là một khái niệm được sử dụng để miêu tả các vấn đề liên quan đến tình dục ở phụ nữ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống tình dục của họ. ...

Rối loạn tình dục nữ là một khái niệm được sử dụng để miêu tả các vấn đề liên quan đến tình dục ở phụ nữ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống tình dục của họ. Các rối loạn tình dục nữ có thể bao gồm mất ham muốn tình dục (không có sự hứng thú hoặc khao khát tình dục), khó khăn hoặc không thể đạt được cực khoái tình dục, đau và giảm khoái cảm khi giao hợp, sự mất cân bằng hormone hoặc các vấn đề về sức khỏe tình dục khác. Các rối loạn tình dục nữ có thể gây ra căng thẳng, mâu thuẫn trong quan hệ tình dục, và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của phụ nữ. Việc tìm hiểu, chẩn đoán và điều trị rối loạn tình dục nữ có thể được tiến hành bởi các chuyên gia y tế tâm lý hoặc các chuyên gia tình dục.
Rối loạn tình dục nữ có thể được chia thành các loại sau:

1. Mất ham muốn tình dục (hypoactive sexual desire disorder, HSDD): Đây là trạng thái mất hứng thú hoặc muốn giảm sự ham muốn tình dục. Nó không phụ thuộc vào đối tác, môi trường hoặc các yếu tố tình cảm khác và gây khó khăn hoặc stress cho người mắc.

2. Rối loạn ham muốn tình dục tăng cao (hyperactive sexual desire disorder, HSDD): Ngược lại với HSDD, loại rối loạn này đặc trưng bởi sự tăng cao về ham muốn tình dục, thường là không kiểm soát và gây khó khăn trong cuộc sống hàng ngày và quan hệ tình dục.

3. Rối loạn kích thích tình dục (sexual arousal disorder): Đây là trạng thái khi người phụ nữ không thể đạt được hoặc duy trì sự kích thích tình dục đủ để thụ tinh hoặc tạo ra khoái cảm tình dục. Điều này có thể do sự thiếu hụt hoạt động máu trong khu vực sinh dục, vấn đề về thần kinh hoặc do tác động của các yếu tố tâm lý.

4. Rối loạn khoái cảm tình dục (orgasmic disorder): Đây là trạng thái khi phụ nữ không thể đạt được khoái cảm tình dục dù có kích thích tình dục đủ. Nó có thể được chia thành hai loại: khó khăn trong việc đạt được khoái cảm (delayed orgasm) và vấn đề hoàn toàn không thể đạt được khoái cảm tình dục (anorgasmia).

5. Vaginismus và dyspareunia: Vaginismus là một rối loạn khi cơ nhút nơi cửa âm đạo co bóp tự động khi có sự xâm nhập hoặc cố gắng xâm nhập, gây ra đau và khó khăn trong quan hệ tình dục. Dyspareunia là một trạng thái khi có sự đau hoặc khó chịu trong quan hệ tình dục.

Các nguyên nhân của rối loạn tình dục nữ có thể bao gồm yếu tố về sức khỏe, thuốc men, stress, mất cân bằng hormone, bệnh lý tâm lý hoặc gắn kết trong quan hệ. Điều trị của rối loạn tình dục nữ có thể liên quan đến tư vấn tâm lý, điều chỉnh lối sống, thuốc men, hoặc phương pháp điều trị không dùng thuốc. Việc tìm hiểu và tham khảo ý kiến của chuyên gia y tế là cách tốt nhất để xác định và điều trị rối loạn tình dục nữ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rối loạn tình dục nữ":

Tỉ lệ rối loạn tình dục và các yếu tố liên quan ở phụ nữ trong tuổi sinh sản tại tp HCM (2013)
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 4 - Trang 48-51 - 2014
Đặt vấn đề: Rối loạn tình dục nữ là một vấn đề sức khoẻ có nhiều nguyên nhân và chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn tình dục (RLTD) và các yếu tố liên quan RLTD ở phụ nữ tuồi sinh sản tại TPHCM. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 1.160 phụ nữ tuổi sinh sản tại 30 xã/phường tại tp HCM từ ngày 02/5/2013 đến ngày 30/11/2013. Kết quả: Tỷ lệ RLTD nữ ở phụ nữ tuổi sinh sản tại thành phố Hồ Chí Minh là 34,2% với KTC 95% [31,5 – 37,1]. Một số yếu tố tăng nguy cơ RLTD: ngủ chung với con, không tâm sự với chồng, quan hệ tình dục (QHTD) ít hơn 5 lần/tháng, chồng giảm khả năng tình dục, chung sống từ 5 năm trở lên. Kết luận: Tỉ lệ RLTD ở phụ nữ tuổi sinh sản tại thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình so với tỉ lệ từ các nghiên cứu nước ngoài. Một số yếu tố trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày liên quan đến RLTD nữ và có thể cải thiện được. Do đó, cần tư vấn cho người phụ nữ về cách sắp xếp cuộc sống nhằm bảo đảm đời sống tình dục thỏa mãn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
#Rối loạn tình dục nữ #phụ nữ tuổi sinh sản.
Rối loạn tình dục ở khách hàng nữ đến đơn vị tư vấn tình dục của Bệnh viện Từ Dũ năm 2015
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 3 - Trang 123-128 - 2016
Đặt vấn đề: Rối loạn tình dục nữ là một vấn đề sức khoẻ, được kết hợp với nhiều yếu tố và chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Mục tiêu: Mô tả những đặc điểm dịch tễ học, phân loại các hình thái rối loạn của 167 khách hàng nữ được chẩn đoán rối loạn tình dục tại Đơn vị tư vấn tình dục của bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2015. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang. Đối tượng được mời vào nghiên cứu là những phụ nữ có nhu cầu tư vấn về những trục trặc trong quan hệ tình dục, tự trả lời bộ câu hỏi Chỉ Số Chức Năng Tình Dục Nữ. Bộ câu hỏi gốc bằng tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt. Ngưỡng điểm để xác định rối loạn tình dục chung cũng như cho từng hình thái được dựa vào những nghiên cứu trước. Chẩn đoán rối loạn tình dục gồm sáu hình thái là Giảm ham muốn, Giảm phấn khích, Không đủ chất nhờn âm đạo, Khó đạt khoái cảm, Không thỏa mãn, và Đau khi giao hợp. Kết quả: Chỉ có 14,4% khách hàng biết Đơn vị tư vấn tình dục của bệnh viện Từ Dũ trước khi đến. Các hình thái rối loạn tình dục đều chiếm tỉ lệ cao, theo thứ tự là Khó đạt khoái cảm, Không thỏa mãn về cuộc sống tình dục, Giảm phấn khích, Không đủ chất nhờn, Giảm ham muốn, và Đau khi giao hợp. Điểm số trung bình về rối loạn tình dục chung là 20,62 ± 2,13, thấp nhiều so với ngưỡng chẩn đoán là 26,55. Đa số khách hàng có thời gian rối loạn tình dục từ 2 tháng đến dưới 10 tháng trước khi đi khám. Chỉ có 17,96% đối tượng nghiên cứu biết đầy đủ về một quá trình giao hợp bình thường. Trong các yếu tố về gia đình và xã hội thì quan hệ gia đình trục trặc là yếu tố phổ biến nhất. Kết luận: Nhu cầu được chăm sóc về cuộc sống tình dục của phụ nữ là có thực. Cần xây dựng Đơn vị Tư vấn Tình dục tại các cơ sở y tế và giới thiệu rộng rãi để những khách hàng có nhu cầu sẽ được tư vấn và giúp đỡ sớm hơn.
#rối loạn tình dục nữ #đơn vị tư vấn tình dục #bệnh viện Từ Dũ
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở BỆNH NHÂN SUY TIM CHỨC NĂNG TÂM THU THẤT TRÁI GIẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân suy tim chức năng tâm thu thất trái giảm và một số yếu tố liên quan tại Viện Tim mạch Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang xác định rối loạn chức năng tình dục ở bệnh nhân nữ dựa vào bộ câu hỏi FSFI, rối loạn cương dương ở bệnh nhân nam dựa vào bộ câu hỏi IIEF. Kết quả: Tỷ lệ suy giảm chức năng sinh dục nữ với 77,3%; rối loạn cương dương ở nam 88,9%; rối loạn chức năng tình dục nữ và rối loạn cương dương có liên quan đến tuổibệnh nhân suy tim. Kết luận: Rối loạn chức năng tình dục nữ và rối loạn cương dương ở bệnh nhân suy tim chức năng tâm thu thất trái giảm với tỷ lệ cao, có tương quan với tuổi của bệnh nhân suy tim.
#Suy tim #Rối loạn chức năng tình dục nữ #Rối loạn cương dương
9. Thực trạng rối loạn chức năng tình dục và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai đến khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Mô tả thực trạng suy giảm chức năng tình dục và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai (PNMT) đến khám thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2020. Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi FSFI (Female Sexual Function Index) nhằm đánh giá chức năng tình dục của phụ nữ: phụ nữ mang thai có điểm từ 26,55 trở xuống được đánh giá là gặp rối loạn chức năng tình dục (RLCNTD). Kết quả cho thấy: 130 phụ nữ mang thai tham gia vào nghiên cứu, 20% phụ nữ mang thai không có hoạt động giao hợp trong vòng 4 tuần qua. Tỷ lệ rối rối loạn chức năng tình dục tương đối cao: 51,5%. Điểm FSFI trung bình ở phụ nữ mang thai là 23,9 ± 7,7 điểm. Phụ nữ mang thai quý 2 có điểm trung bình về ham muốn là 2,9 ± 0,9 điểm, thấp hơn so với quý 1 là 3,6 ± 1,0 điểm. Các yếu tố: tuổi mẹ, quan điểm quan hệ tình dục khi mang thai là các yếu tố liên quan đến rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ mang thai. Tỷ lệ PNMT từ 30 tuổi trở lên có bị RLCNTD chỉ bằng 0,29 lần so với nhóm dưới 30 tuổi. Những PNMT cho rằng QHTD cải thiện SK bị RLCNTD chỉ bằng 0,26 lần so với nhóm không đồng ý với quan điểm trên.
#chức năng tình dục nữ giới #FSFI #rối loạn chức năng tình dục #phụ nữ mang thai #quan hệ tình dục #yếu tố liên quan
Tổng quan về điều trị testosterone cho phụ nữ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 4 - Trang 14-17 - 2023
Việc điều trị testosterone cho phụ nữ được áp dụng khá rộng rãi, với nhiều chỉ định khác nhau. Dù vậy, đến nay vẫn chưa có cơ quan quản lý dược nào phê duyệt chế phẩm testosterone chính thức cho phụ nữ. Chứng cứ về tính an toàn của sử dụng testosterone lâu dài cũng chưa đầy đủ. Bài viết cập nhật những khuyến cáo mới nhất của các hiệp hội chuyên ngành về chỉ định, phương thức và theo dõi điều trị testosterone dựa trên y học chứng cứ nhằm định hướng cho thực hành lâm sàng.
#testosterone # #rối loạn giảm ham muốn tình dục
TỶ LỆ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NỮ NHÂN VIÊN Y TẾ Ở CÁC BỆNH VIỆN CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 541 Số 2 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Việc đang thiếu hụt nguồn lực nhân viên y tế ở các bệnh viện (BV) công tại thành phố Buôn Mê Thuột sẽ dẫn tới tăng gánh nặng công việc, áp lực ngày càng cao cho các NVYT còn lại. Đặc biệt với NVYT nữ, với môi trường áp lực như vậy sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe thể chất và tinh thần trong đó có sức khỏe tình dục. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục và các yếu tố liên quan  ở nữ  nhân viên y tế tại các bệnh viện công ở thành phố Buôn Ma Thuột (TP.BMT) năm 2004. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 384 NVYT nữ đang làm việc tại 3 BV công trên địa bàn TP Buôn Ma Thuột bằng phương pháp chọn mẫu PPS, tất cả NVYT đồng ý tham gia nghiên cứu (NC) đều được gửi bộ câu hỏi FSFI bằng biểu mẫu trực tuyến (Google forms). Kết quả: Tỷ lệ rối loạn tình dục là: 69% (KTC 95%: 64,1 -73,7) và các yếu tố liên quan đến RLTD chung: Đạo Công Giáo (POR*:  5,9), sự hài lòng khi quan hệ tình dục của chồng (POR*: 0,064), có con nhỏ có cản trở QHTD của vợ chồng (POR*:2,2), công việc bị áp lực/rất áp lực (POR*: 3,55), NVYT tại BV Vùng Tây Nguyên (POR*:3,05). Kết Luận: Tỷ lệ RLTD nữ NVYT tăng lên đáng kể khi làm trong môi trường công việc áp lực, căng thẳng. Đạo công giáo, cho rằng chăm con nhỏ ảnh hưởng đến QHTD và sự hài lòng khi quan hệ tình dục của chồng
#Rối loạn tình dục nữ #nhân viên y tế
Sự phát triển và đời sống tình dục của bệnh nhân nữ tâm thần Dịch bởi AI
Archives of Sexual Behavior - Tập 15 - Trang 341-353 - 1986
Sử dụng phỏng vấn có cấu trúc và bốn bảng hỏi, chúng tôi đã khảo sát sự phát triển tình dục và đời sống trong các nhóm bệnh nhân nữ tâm thần sau đây: 51 bệnh nhân mắc bệnh tâm thần phân liệt, 50 bệnh nhân mắc rối loạn hưng trầm cảm, 50 bệnh nhân mắc rối loạn thần kinh, 30 bệnh nhân có tính cách tâm thần phân liệt và 20 bệnh nhân mắc chán ăn tâm thần. Kết quả được so sánh với một nhóm đối chứng gồm 101 bệnh nhân điều trị tại spa phụ khoa. Sự phát triển tình dục của bệnh nhân tâm thần phân liệt được phát hiện là bị chậm lại, trong khi sự phát triển tình dục của các bệnh nhân mắc chán ăn tâm thần lại tăng tốc trong giai đoạn đầu. Sự phát triển tình dục của bệnh nhân có tính cách tâm thần phân liệt được xác định là không đồng nhất. Không có sự khác biệt nào được tìm thấy giữa bệnh nhân mắc rối loạn hưng trầm cảm và nhóm đối chứng về đời sống tình dục trong giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên, tất cả các nhóm bệnh nhân tâm thần khác đều cho thấy hoạt động và/hoặc phản ứng tình dục giảm sút. Rối loạn chức năng tình dục trong dân số nữ tâm thần là khá thường gặp, đặc biệt là ở các bệnh nhân tâm thần phân liệt, phụ nữ mắc chán ăn tâm thần, và ở những người có tính cách tâm thần phân liệt. Các yếu tố nguyên nhân chịu trách nhiệm cho những rối loạn tình dục này là khác nhau ở từng nhóm bệnh nhân tâm thần.
#tình dục #bệnh tâm thần #phát triển tình dục #rối loạn chức năng tình dục #tâm thần phân liệt #chán ăn tâm thần
Chức năng tình dục của phụ nữ chuyển giới đã trải qua phẫu thuật khẳng định giới tính sử dụng phương pháp tạo hình âm đạo bằng lật da dương vật tại Thái Lan Dịch bởi AI
Chirurgia plastica - Tập 45 - Trang 101-107 - 2021
Rối loạn bản dạng giới là một tình trạng trong đó có sự khác biệt giữa bản dạng giới và giới tính được xác định khi sinh. Tỷ lệ mắc phải tình trạng này đang gia tăng trên toàn cầu. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đánh giá chức năng tình dục của phụ nữ chuyển giới sau phẫu thuật khẳng định giới tính sử dụng phương pháp tạo hình âm đạo bằng lật da dương vật. Các mục tiêu thứ yếu là đánh giá lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất trong chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI) và chất lượng cuộc sống (QOL) của những người tham gia. Đây là một nghiên cứu cắt ngang. Dữ liệu được thu thập từ 69 phụ nữ chuyển giới đã trải qua phẫu thuật tạo hình âm đạo bằng lật da dương vật ít nhất 3 tháng trước khi nghiên cứu bắt đầu. Những người tham gia được yêu cầu hoàn thành hai bảng hỏi, FSFI và WHOQOL-BREF. Rối loạn chức năng tình dục được chẩn đoán ở những phụ nữ chuyển giới có điểm FSFI ≤ 26, được coi là rối loạn chức năng tình dục. Tám mươi hai phần trăm (82,61%) những người tham gia báo cáo tổng điểm FSFI dưới 26. Điểm FSFI trung bình là 22,95, với điểm thấp nhất ở lĩnh vực bôi trơn. Tuy nhiên, chỉ có 2,9% những người tham gia có chất lượng cuộc sống kém theo chỉ số WHOQOL-BREF. Nghiên cứu này đã phát hiện một tỷ lệ rối loạn chức năng tình dục đáng kể theo điểm FSFI ở những phụ nữ chuyển giới đã trải qua phẫu thuật khẳng định giới tính bằng phương pháp lật da dương vật. Tuy nhiên, chất lượng cuộc sống theo điểm WHOQOL-BREF lại thường cao trong dân số này. Mức độ bằng chứng: Cấp IV, nghiên cứu về nguy cơ/dự đoán.
#Rối loạn bản dạng giới #phụ nữ chuyển giới #chức năng tình dục #phẫu thuật khẳng định giới tính #chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI) #chất lượng cuộc sống (QOL)
18. BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH CO THẮT ÂM ĐẠO ĐIỀU TRỊ TẠI TRUNG TÂM Y HỌC GIỚI TÍNH BỆNH VIỆN NAM HỌC VÀ HIẾM MUỘN HÀ NỘI TỪ 2022 ĐẾN 2024
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD4 - Hội Y học Giới tính Việt Nam - Trang - 2024
Mục tiêu: Hiểu biết về co thắt âm đạo (Vaginismus) còn hạn chế, chưa có thống nhất trong phương pháp điều trị. Tình dục liệu pháp là một trong những phương pháp điều trị co thắt âm đạo. Nghiên cứu báo cáo loạt ca co thắt âm đạo được điều trị tại Trung tâm Y học Giới tính, bệnh viện Nam học và Hiếm muộn Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9/2022 đến tháng 3/2024 có 20 bệnh nhân được chẩn đoán co thắt âm đạo. Tất cả bệnh nhân được báo cáo bệnh sử, thăm khám lâm sàng, chẩn đoán và điều trị. Điều trị thành công xác định khi có khả năng quan hệ tình dục thâm nhập. Chỉ số chức năng tình dục nữ (FSFI) được ghi nhận trước, sau điều trị. Kết quả: Chúng tôi báo cáo 19/20 bệnh nhân điều trị thành công bằng liệu pháp tình dục. Chỉ số chức năng tình dục nữ cải thiện từ 7,1 điểm lên 25,1 điểm sau điều trị 1 tháng. Không ghi nhận tai biến, biến chứng, trong quá trình điều trị. Kết luận: Tình dục liệu pháp dường như là một trong những phương pháp an toàn, thành công, chi phí thấp điều trị co thắt âm đạo.
#Co thắt âm đạo #rối loạn chức năng tình dục nữ #tình dục liệu pháp.
14. MÔ TẢ MỘT SỐ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở BỆNH NHÂN NAM GIỚI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LÂM SÀNG LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC QUẢNG NAM NĂM 2024
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD4 - Hội Y học Giới tính Việt Nam - Trang - 2024
Giới thiệu: Rối loạn chức năng tình dục ở nam giới, một vấn đề trở nên phổ biến hơn khi tuổi tác ngày càng tăng, bao gồm rối loạn cương dương (ED), giảm ham muốn tình dục và rối loạn xuất tinh. Nghiên cứu được triển khai mô tả tỷ lệ mắc các bệnh lý rối loạn chức năng tình dục ở nam giới mắc đái tháo đường, khảo sát mối liên quan giữa các bệnh lý rối loạn chức năng tình dục và các yếu tố nguy cơ tim mạch, biến cố tim mạch lớn ở nam giới mắc đái tháo đường tại tỉnh Quảng Nam năm 2024. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt bệnh, từ tháng 01/2024 đến tháng 04/2024 tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực miền núi Phía Bắc Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 63 nam giới mắc ĐTĐ với độ tuổi trung bình 54,4 ± 9,1 năm và thời gian mắc ĐTĐ 5,1 ± 4,4 năm. Chúng tôi ghi nhận 15,9% người bệnh không dùng thuốc hạ đường huyết. Có trên 50% đối tượng có các yếu tố nguy cơ tim mạch như thừa cân, béo phì, hút thuốc lá, tăng huyết áp. Tỷ lệ rối loạn cương dương là 69,8% trong đó có đến 20,6% đối tượng nghiên cứu được ghi nhận là RLCD mức độ TB-nặng. Người bệnh ĐTĐ có rối loạn cương dương có tuổi, vòng bụng, HbA1C, đường máu đói, ure máu, tỷ lệ hút thuốc lá, bệnh lý thần kinh ĐTĐ, bệnh mạch vành, suy sinh dục gặp nhiều hơn có ý nghĩa khi so sánh với nhóm không mắc RLCD. Kết luận: Cần có những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề trên, giúp định hướng điều trị và giải quyết thực trạng còn tồn tại ở nhóm bệnh nhân nam giới mắc đái tháo đường.
#Đái tháo đường #rối loạn cương dương #bệnh lý rối loạn chức năng tình dục.
Tổng số: 20   
  • 1
  • 2